Trong phát triển kinh tế biển Việt Nam chủ yếu quan tâm tới những loài sinh vật biển có giá trị thực phẩm, mà ít chú ý tới giá trị cung cấp các chất có hoạt tính sinh học cao để làm thuốc.
Phần lớn nguồn nguyên liệu làm thuốc, đặc biệt thuốc y học cổ truyền được lấy từ các sinh vật hoang dã hoặc nuôi trồng trên đất liền, chỉ một phần nhỏ được khai thác từ các sinh vật sống ở biển. Nguồn nguyên liệu từ sinh vật hoang dã trên mặt đất ngày càng cạn kiệt, còn nguồn từ sinh vật biển vô cùng phong phú và đa dạng, nhưng còn ít được khai thác và sử dụng. Đại dương bao la chiếm 71% bề mặt Trái đất, ước tính có hàng chục triệu loài sinh vật biển (chủ yếu là các vi sinh vật) đang sống. Nếu như trên đất liền có khoảng 270.000 loài thực vật đã biết cho tới nay và hàng triệu loài côn trùng và vi sinh vật đang sinh sống thì số sinh vật biển lớn hơn rất nhiều. Nhiều hoạt chất lấy từ các sinh vật biển có tác dụng mạnh gấp hàng trăm lần so với các chất lấy từ sinh vật trên đất liền
Tại Việt Nam, có gần 12.000 loài sinh vật biển, bao gồm 2.000 loài cá, 6.000 loài động vật đáy, 653 loài tảo, 5 loài rùa, 12 loài rắn biển... Trong số đó, nhóm sinh vật đã biết có chứa các chất hoạt tính sinh học tiềm năng rất phong phú (như hải miên, san hô mềm...), kể cả những sinh vật có độc tố (như cá nóc, rắn biển, xoang tràng...).
Đại dương chính là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu làm thuốc vô tận cho ngành dược. Các nhà hóa học và dược học đang hy vọng sẽ tìm ra những loại thuốc thế hệ mới được điều chế từ các sinh vật biển để chữa trị những căn bệnh nan y hiện nay.
Năm 2013, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã thực hiện Đề án Nghiên cứu các hoạt tính sinh học từ nguồn dược liệu biển vùng Đông Bắc, với mục tiêu phát triển nguồn nguyên liệu dược liệu quý và bảo tồn nguồn gen các loài sinh vật biển
Sau 2 năm nghiên cứu, các nhà khoa học của Viện đã thu thập tổng số 310 mẫu sinh vật biển, trong đó xác định được 136 loài sinh vật, 77 giống, 13 chi và 66 họ thuộc 6 nhóm sinh vật (thân mềm, da gai, hải miên, san hô cứng, san hô mềm và rong, cỏ biển). Đây là các mẫu sinh vật biển quý giá, phục vụ cho công tác nghiên cứu khai thác các hợp chất thứ cấp có hoạt tính sinh học dùng làm thuốc chữa bệnh và bảo tồn nguồn gen vi sinh vật.
Đồng thời, xác định 13 bãi dược liệu biển ở vùng Đông Bắc trong đó có Cô Tô - Thanh Lân; Bái Tử Long; Hạ Long - Cát Bà là những khu vực trọng điểm, tập trung nhiều đối tượng sinh vật biển thuộc các nhóm sinh vật biển trên. Kết quả bước đầu cho thấy, tiềm năng và triển vọng khai thác các loại dược liệu biển ở vùng Đông Bắc.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã phân lập và xác định cấu trúc hóa học của 329 hợp chất, trong đó 97 hợp chất phân lập từ 10 loài hải miên; 74 hợp chất từ 11 loài san hô mềm; 65 hợp chất từ 12 loài da gai; 82 hợp chất từ 15 chủng vi sinh vật biển; 6 hợp chất từ 2 loài rong cỏ biển và 5 hợp chất từ động vật thân mềm.
Trong số các hợp chất đã phân lập, phát hiện có 49 chất mới như steroit, tecpenoit, axít amin, phenol, các axít béo có tính kháng khuẩn cao có thể dùng để sản xuất thuốc chữa ung thư, kháng viêm, điều tiết miễn dịch, kháng vi sinh vật kiểm định, kháng lao và chống ôxy hóa. Hiện nay, có một số hoạt chất có nguồn gốc từ sinh vật biển sản xuất thành thuốc, được Bộ Y tế cấp phép lưu hành trên thị trường như thuốc Ara-C và Trabectedin (chữa ung thư), Ara-A (điều trị bệnh Herpes) và Ziconotide (thuốc giảm đau)…
Theo các nhà khoa học, khu vực Bắc Bộ có nguồn tài nguyên dược liệu biển phong phú và đa dạng. Do đó, nghiên cứu cơ bản về thành phần loài, mẫu sinh vật biển làm dược liệu đã đóng góp tích cực cho sự phát triển sản xuất hóa dược từ nguồn dược liệu sinh vật biển và bảo tồn nguồn gen. Tuy vậy, những năm gần đây, nguồn tài nguyên thiên nhiên biển trong khu vực này đang bị đe dọa nghiêm trọng, các loài sinh vật biển bị suy giảm, một số loài có nguy cơ tuyệt chủng như cá ngựa, rắn biển… do môi trường biển ô nhiễm, tình trạng đánh bắt bừa bãi của ngư dân.
Các chuyên gia cho rằng, phát triển sản xuất hóa dược từ nguồn dược liệu sinh vật biển của Việt Nam là một hướng đi quan trọng và cần thiết, đồng thời là một chiến lược lâu dài cần được Nhà nước quan tâm, đầu tư. Trong các năm tới, Việt Nam sẽ phát triển nền công nghiệp sản xuất hóa dược từ nguồn dược liệu sinh vật biển ở tầm quốc tế.